Thứ Sáu, 26 tháng 6, 2015
SAU CƠN “MƯA HOANG” LÀ THĂM THẲM NIỀM THƯƠNG, NỖI NHỚ…
Khi đọc một tác phẩm văn
học, điều tôi chú ý đầu tiên là nhan đề của tác phẩm đó. Nói như Đào Ngọc Đệ:
Nhan đề “như gương
mặt của một con người; nó là cái nổi bật nhất để phân biệt tác phẩm này với tác
phẩm khác”
Như người bố, người mẹ
phải nghĩ suy trăn trở lựa chọn khi đặt
tên cho đứa con thân yêu của mình, nhan đề mỗi bài (hay tập) thơ, truyện ngắn,
tiểu thuyết…đều thể hiện sự lao động nghệ thuật của tác giả đối với đứa con
tinh thần của mình. Khi ta bắt gặp những nhan đề cũ mèm thể hiện sự lười biếng
trong lao động nghệ thuật, tự dưng cảm thấy mất hứng không muốn đọc tiếp tập
thơ (hay tập truyện) ấy nữa.
Giữa hàng chục tập sách
mới được bạn bè xa gần biếu tặng, tôi chú ý đến tập thơ của tác giả Hà Quảng
cũng bởi cái tít khá lạ và độc đáo của anh “Mưa hoang”.
“Cơn mưa hoang rong
chơi về phố biển
Gió nồng nàn gợi
dáng thu xưa.”
(Mưa hoang)
Bằng nghệ thuật tu từ nhân hóa, tác giả khiến người đọc thú
vị khi hình dung ra “cơn mưa hoang” như một chàng lãng tử trẻ tuổi nghịch ngợm,
ưa xê dịch. Một chút phiêu diêu, một chút mộng mơ tạo nên sự liên tưởng hư
thực, bảng lảng giữa thiên nhiên và trạng thái tinh thần của con người:
“ Em lại tìm em trong
ngút ngàn ngày tháng cũ
Em thấy bóng dáng mình
bên chùm hoa dại
Em thả hồn trong nắng
gió yêu thương
Em dệt vần thơ
từng sợi tơ vương
Thảng thốt chiều nay
sao dài nỗi nhớ…”
(Mưa hoang)
Trong toàn tập thơ, tác
giả dành nhiều thời gian ưu ái viết về tình yêu đôi lứa:
“ mái tóc bay trong
chiều lộng gió
phủ xuống câu thơ ngọt
mềm”
(Mái tóc em)
Tác giả đã khéo léo sử dụng biện pháp tu từ nghệ thuật
hoán dụ “mái tóc” theo phương thức chuyển nghĩa để nói về một bóng hồng mà anh
hằng nhung nhớ. “Mái tóc” đó “bay trong chiều lộng gió”, rồi tìm điểm dừng thật
nhẹ nhàng, êm ả “phủ xuống câu thơ ngọt mềm”.
“Câu thơ ngọt mềm”. Câu
thơ nhờ có hình ảnh mái tóc trở nên dịu dàng, êm ái, đáng yêu xiết bao! Sự
chuyển đổi cảm giác trong thơ từ thị
giác đến vị giác, xúc giác, thính giác và
đến cả linh giác. Bao kỷ niệm thân thương ùa về “mái tóc” như “câu thơ mượt mà”- mái tóc “
thơm hương dịu dàng” là cái cớ để người thơ ấy vấn vương một mối tình trong
hoài niệm thẳm sâu…
“ Vần thơ anh viết có
tình em
Mái tóc em bay trong
gió chiều
Có hương sen tỏa trong
hơi thở
Ánh mắt lặng thầm…bao
lời yêu”
(Em của tình thơ)
Người đẹp không chỉ
hiện lên trong thơ Hà Quảng bằng hình ảnh hoán dụ chọn lọc “mái tóc” mà còn
bằng hình ảnh hoán dụ “đôi mắt” nữa:
“ ánh mắt của suy tưởng
của đắm say
cháy bỏng cơn khát
…đôi mắt em
hoang sơ màu tư tưởng
xanh niềm mơ ước
xanh lòng khát khao”
(Cơn
khát mắt em)
Vẻ đẹp của đôi mắt ấy không chỉ dừng ở cái nhìn sáng
trong, cháy bỏng “như vì sao lấp lánh/ ánh lửa bập bùng” bề ngoài nữa mà nó đã thể hiện rõ vẻ đẹp nội tâm, vẻ
đẹp trí tuệ của em rồi. Người ta thường nói “Đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn”.
Tôi yêu những câu thơ có chiều sâu như thế trong “Mưa hoang” của Hà Quảng:
“ Một chút giận, một
chút hờn lăn trên mắt em
Anh bỗng thấy câu thơ
tình nặng niềm trăn trở…”
(Một chút giận, một chút hờn)
“ Em mềm mại dễ thương
như vầng trăng tỏa sáng
tỏa sáng vần thơ
tỏa sáng ước mơ
mà sao cũng là bão?
anh bị tấn công
anh bị bao vết thương
bị nỗi nhớ dày vò
anh không chống nổi !
…chiều loang tím
trĩu nặng
bão từ phía em ! »
(Bão
từ phía em)
Từ cơn bão Haiyan có thật
trong đời, tác giả liên tưởng đến cơn bão «từ phía em» -người con gái «mềm mại
dễ thương» với vẻ đẹp tâm hồn thánh thiện «như vầng trăng tỏa sáng». Thoạt nghe
tưởng chừng như vô lí nhưng càng ngẫm càng thấy thật hợp lô gic: Chính vì em
đẹp thế, em thánh thiện đến thế mới làm lòng anh nổi giông nổi bão bởi «nỗi nhớ
dày vò/ anh không chống nổỉ». Đó là cách nói hình tượng đầy chất thơ.
Câu thơ tả tâm trạng này
cũng rất gợi :
«em nhìn mưa qua cửa sổ
Chiếc lá vàng lảo đảo
Gợi nỗi niềm yêu thương»
(Sài Gòn bất chợt)
Câu thơ nhân hóa «chiếc lá
vàng lảo đảo» khiến ta liên tưởng đến kiếp người mỏng manh «sắc sắc không không»
như lá vàng trước cơn mưa gió của cuộc đời; lòng lại thầm mong cho đi và nhận
lại thật nhiều yêu thương trong cuộc sống hữu hạn của con người…
Bên cạnh chủ đề chính viết
về tình yêu đôi lứa, Hà Quảng cũng dành dụm thời gian viết về tình yêu gia
đình, tình yêu quê hương, đất nước. Tình yêu gia đình, quê hương, đất nước
trong thơ anh gần gũi thân thương và hòa quyện khăng khít, thắm thiết. Không
gian thơ mở rộng đa chiều: từ cơn «Mưa xưa» qua
«Chiều mưa Đồng Cát»; từ «Dòng sông quê mẹ» đến «sông Thoa», «sông Dinh»;
từ giọt «Nắng phương Nam» đến «Đôi miền thương nhớ»…đâu đâu ta cũng bắt gặp
những hình ảnh thân thương, trìu mến, thiên nhiên ấp ủ tâm hồn người :
« Cơn mưa chiều lãng
đãng
Dòng sông Thoa thì
thầm…”
“ Nắng phương
Nắng dịu hiền mang màu
sắc rất riêng
Nắng phương
Cứ dập dờn như con sóng
triền miên…”
Rất nhiều người đã làm
thơ ca ngợi: Mười cô gái ở Ngã Ba Đồng Lộc nhưng Hà Quảng có cách thể hiện
riêng. Vẫn bằng thủ pháp tu từ hoán dụ,
tác giả dụng công đặc tả về mái tóc- mái tóc của những nữ thanh niên xung phong
thời chống Mỹ cứu nước:
“ mái tóc vương vương
màu đất
mái tóc vương vương màu
khói bom
cây bồ kết trĩu quả tỏa
hương
cái lược, cái gương của
thời con gái…”
(Mười cô gái ở ngã ba Đồng Lộc)
Không chỉ mở rộng phạm
vi thơ ở không gian đa chiều, Hà Quảng cũng rất chú ý đến thời gian trong thơ:
quá khứ- hiện tại- tương lai luôn đan
cài, trăn trở trong thơ anh. Sau hai
mươi năm xa cách, thầy trò gặp lại nhau
tại ngôi trường cũ, thầy giáo rưng rưng
quan sát các em đi tìm lại bóng dáng, nụ cười, tiếng nói của mình “còn đọng đâu
đây nơi lớp học sân trường”. Không có tấm lòng yêu nghề mến trẻ sâu sắc, không
thể viết được những câu thơ chân mộc, nặng tình như thế này:
“ Những mái đầu xanh
nhuộm vài sợi bạc
Cuộc sống mỗi người
nhiều nét đổi thay
Chúng ta vẫn nhận ra
bao điều ngày ấy
Niềm yêu thương còn
lắng đọng đến giờ!”
(Sau hai mươi năm)
Mùa xuân- thời gian
khởi đầu một năm, cả nước dành sự quan tâm cho những người lính trẻ đang ngày
đêm canh giữ bảo vệ biển đảo Trường Sa:
“Người dân biết các anh
còn nhiều thiếu thốn
Gửi món quà quê mẹ thắm
yêu thương
Người vợ gửi cho chồng
bằng tình yêu chung thủy
Đứa con thơ gửi cha cái
hôn nồng nàn sữa mẹ…”
Tác giả thấm thía một
điều: món quà các anh bộ đội Trường Sa cần nhất không phải là
giá trị vật chất mà là tình cảm thân thương, trìu mến, chung thủy…từ đất liền dành
cho anh, giúp anh có thêm động lực “vững vàng tay súng, bảo vệ chủ quyền lãnh
hải biên cương”.
Mùng ba Tết, học sinh
đến thăm thầy cũng làm cho tác giả rưng rưng cảm động:
“Chén trà xuân lan tỏa
Không gian tràn nhớ
thương
Hương xuân gợi vấn
vương
Biết bao điều muốn nói”
(Chiều mùng ba Tết)
Mỗi khoảnh khắc thời gian
đi qua cuộc đời cũng chạm vào tâm hồn đa cảm ấy miên man nỗi nhớ
“tháng ba rồi không
biết sao đây
nỗi nhớ chất chồng nỗi
nhớ
sao nhớ thương không
lối đợi
vương vương tóc em nồng nàn”
(Chút nắng tháng ba)
Giọt mưa tháng bảy trong thơ anh cũng vương mang sầu nhớ:
“ Giọt mưa nào rơi bên
kia sông
Để giọt bên này nhớ
nhung sâu nặng”
(Mưa tháng bảy)
Rồi một đêm tháng mười huyền ảo:
“ anh vịn vào ánh trăng
ánh trăng khuya mềm mại
như nỗi nhớ không tên
trĩu nặng bao niềm khát
khao…”
( Giữa tháng mười)
Có một mùa thu người
thơ ấy ra thăm Hà Nội “thành phố cổ kính trong sắc màu hiện đại”, ngắm hồ Gươm
“lăn tăn con sóng” êm dịu, sao anh vẫn cảm thấy như những con sóng ấy:
“Vỗ vào lòng anh
Cứa vào da thịt anh
Nỗi nhớ”
( Mùa thu Hà Nội)
Hơi phóng đại một chút
khi nói con sóng lăn tăn nơi Hồ gươm thơ mộng kia lại có sức mạnh “cứa vào da
thịt anh nỗi nhớ”. Nhưng nếu đọc kỹ từng bài thơ trong tập thơ” Mưa hoang” của Hà Quảng, mới hiểu người
thơ này luôn mượn cảnh tả tình và cảm
nhận của anh là hoàn toàn chân thực , bởi “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
(Nguyễn Du).
Thơ Hà Quảng giàu cảm
xúc và mang đầy tâm trạng ưu tư hoài niệm:
“ Chiều nay cơn gió
liêu xiêu
Còn không nỗi nhớ những
chiều mưa xưa?”
(Mưa xưa)
Dẫu có mộng mơ, hoài cổ
đến mấy, người thơ ấy vẫn rất tỉnh táo sống cho hiện tại và hướng đến tương lai
với cái nhìn lạc quan, yêu đời. Bóc tờ lịch cuối cùng của năm cũ, treo lên
tường một bloc lịch mới, anh tự hỏi mình:
“Ta làm được gì sau mỗi
bước thời gian”
(Tờ lịch)
Anh ước mong cho mình
và cho mọi người cuộc sống ngày càng mới
mẻ, tươi trẻ. Đó là thái độ sống của một người đầy lòng tự trọng, biết làm chủ
bản thân và làm chủ cuộc đời.
Gấp cuốn sách lại,
trong tôi vẫn còn đọng lại dư ba cơn “mưa hoang” phiêu lãng xuyên suốt chủ đề
của tập thơ Hà Quảng.Tôi biết anh là một thầy giáo dạy văn cấp ba. Đó là một
lợi thế để người thơ không chuyên này áp dụng các biện pháp tu từ về từ vựng (so
sánh, ẩn dụ, hoán dụ, ngoa dụ…) làm cho nghệ thuật chuyển tải nội dung thơ thêm
phong phú, đa dạng. Một ưu điểm về nghệ thuật nữa trong tập thơ này là tác
giả đã sử dụng linh hoạt các thể thơ tự
do, thơ năm chữ, thơ bảy chữ, thơ tám
chữ, thơ lục bát… khá nhuần nhuyễn, giàu âm thanh, hình ảnh, nhạc điệu. Tôi
biết có nhiều người viết thơ không chuyên ở lứa tuổi 5x, 6x thường mắc phải cái
lỗi viết thơ theo lối mòn, lặp lại nội dung, cách viết của người khác và lặp
lại chính mình. Rất may, Hà Quảng không mắc phải cái lỗi ấy.
Nếu có điều gì mong mỏi
hơn ở thơ Hà Quảng, tôi mong anh dồn nén
cảm xúc trong từng câu chữ hơn nữa, tạo được nhiều câu thơ “ý tại ngôn ngoại”
hơn nữa…Và tôi cũng rất tán đồng với ý
kiến xác đáng của nhà thơ Mai Bá Ấn: ”…Chúng ta tiếp tục mong Hà Quảng có nhiều
hơn những phút “hóa dại khờ” và “hoang đàng”; nhiều hơn nữa những “ngọn tình âm
ỉ cháy” cùng những “hoang sơ mộng mị” ngay chính trong lòng mình để chuyển thi
pháp từ “có cớ” sang “vô cớ” ngày một thơ hơn”.
Sìn Hồ, ngày 25. 6. 2015.
Bùi Thị Sơn
(Hội viên Hội VHNT tỉnh Lai Châu- Hội viên Hội VHNT
Các Dân tộc Thiểu số Việt
“
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét