Thứ Sáu, 26 tháng 6, 2015
SAU CƠN “MƯA HOANG” LÀ THĂM THẲM NIỀM THƯƠNG, NỖI NHỚ…
Khi đọc một tác phẩm văn
học, điều tôi chú ý đầu tiên là nhan đề của tác phẩm đó. Nói như Đào Ngọc Đệ:
Nhan đề “như gương
mặt của một con người; nó là cái nổi bật nhất để phân biệt tác phẩm này với tác
phẩm khác”
Như người bố, người mẹ
phải nghĩ suy trăn trở lựa chọn khi đặt
tên cho đứa con thân yêu của mình, nhan đề mỗi bài (hay tập) thơ, truyện ngắn,
tiểu thuyết…đều thể hiện sự lao động nghệ thuật của tác giả đối với đứa con
tinh thần của mình. Khi ta bắt gặp những nhan đề cũ mèm thể hiện sự lười biếng
trong lao động nghệ thuật, tự dưng cảm thấy mất hứng không muốn đọc tiếp tập
thơ (hay tập truyện) ấy nữa.
Giữa hàng chục tập sách
mới được bạn bè xa gần biếu tặng, tôi chú ý đến tập thơ của tác giả Hà Quảng
cũng bởi cái tít khá lạ và độc đáo của anh “Mưa hoang”.
“Cơn mưa hoang rong
chơi về phố biển
Gió nồng nàn gợi
dáng thu xưa.”
(Mưa hoang)
Bằng nghệ thuật tu từ nhân hóa, tác giả khiến người đọc thú
vị khi hình dung ra “cơn mưa hoang” như một chàng lãng tử trẻ tuổi nghịch ngợm,
ưa xê dịch. Một chút phiêu diêu, một chút mộng mơ tạo nên sự liên tưởng hư
thực, bảng lảng giữa thiên nhiên và trạng thái tinh thần của con người:
“ Em lại tìm em trong
ngút ngàn ngày tháng cũ
Em thấy bóng dáng mình
bên chùm hoa dại
Em thả hồn trong nắng
gió yêu thương
Em dệt vần thơ
từng sợi tơ vương
Thảng thốt chiều nay
sao dài nỗi nhớ…”
(Mưa hoang)
Trong toàn tập thơ, tác
giả dành nhiều thời gian ưu ái viết về tình yêu đôi lứa:
“ mái tóc bay trong
chiều lộng gió
phủ xuống câu thơ ngọt
mềm”
(Mái tóc em)
Tác giả đã khéo léo sử dụng biện pháp tu từ nghệ thuật
hoán dụ “mái tóc” theo phương thức chuyển nghĩa để nói về một bóng hồng mà anh
hằng nhung nhớ. “Mái tóc” đó “bay trong chiều lộng gió”, rồi tìm điểm dừng thật
nhẹ nhàng, êm ả “phủ xuống câu thơ ngọt mềm”.
“Câu thơ ngọt mềm”. Câu
thơ nhờ có hình ảnh mái tóc trở nên dịu dàng, êm ái, đáng yêu xiết bao! Sự
chuyển đổi cảm giác trong thơ từ thị
giác đến vị giác, xúc giác, thính giác và
đến cả linh giác. Bao kỷ niệm thân thương ùa về “mái tóc” như “câu thơ mượt mà”- mái tóc “
thơm hương dịu dàng” là cái cớ để người thơ ấy vấn vương một mối tình trong
hoài niệm thẳm sâu…
“ Vần thơ anh viết có
tình em
Mái tóc em bay trong
gió chiều
Có hương sen tỏa trong
hơi thở
Ánh mắt lặng thầm…bao
lời yêu”
(Em của tình thơ)
Người đẹp không chỉ
hiện lên trong thơ Hà Quảng bằng hình ảnh hoán dụ chọn lọc “mái tóc” mà còn
bằng hình ảnh hoán dụ “đôi mắt” nữa:
“ ánh mắt của suy tưởng
của đắm say
cháy bỏng cơn khát
…đôi mắt em
hoang sơ màu tư tưởng
xanh niềm mơ ước
xanh lòng khát khao”
(Cơn
khát mắt em)
Vẻ đẹp của đôi mắt ấy không chỉ dừng ở cái nhìn sáng
trong, cháy bỏng “như vì sao lấp lánh/ ánh lửa bập bùng” bề ngoài nữa mà nó đã thể hiện rõ vẻ đẹp nội tâm, vẻ
đẹp trí tuệ của em rồi. Người ta thường nói “Đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn”.
Tôi yêu những câu thơ có chiều sâu như thế trong “Mưa hoang” của Hà Quảng:
“ Một chút giận, một
chút hờn lăn trên mắt em
Anh bỗng thấy câu thơ
tình nặng niềm trăn trở…”
(Một chút giận, một chút hờn)
“ Em mềm mại dễ thương
như vầng trăng tỏa sáng
tỏa sáng vần thơ
tỏa sáng ước mơ
mà sao cũng là bão?
anh bị tấn công
anh bị bao vết thương
bị nỗi nhớ dày vò
anh không chống nổi !
…chiều loang tím
trĩu nặng
bão từ phía em ! »
(Bão
từ phía em)
Từ cơn bão Haiyan có thật
trong đời, tác giả liên tưởng đến cơn bão «từ phía em» -người con gái «mềm mại
dễ thương» với vẻ đẹp tâm hồn thánh thiện «như vầng trăng tỏa sáng». Thoạt nghe
tưởng chừng như vô lí nhưng càng ngẫm càng thấy thật hợp lô gic: Chính vì em
đẹp thế, em thánh thiện đến thế mới làm lòng anh nổi giông nổi bão bởi «nỗi nhớ
dày vò/ anh không chống nổỉ». Đó là cách nói hình tượng đầy chất thơ.
Câu thơ tả tâm trạng này
cũng rất gợi :
«em nhìn mưa qua cửa sổ
Chiếc lá vàng lảo đảo
Gợi nỗi niềm yêu thương»
(Sài Gòn bất chợt)
Câu thơ nhân hóa «chiếc lá
vàng lảo đảo» khiến ta liên tưởng đến kiếp người mỏng manh «sắc sắc không không»
như lá vàng trước cơn mưa gió của cuộc đời; lòng lại thầm mong cho đi và nhận
lại thật nhiều yêu thương trong cuộc sống hữu hạn của con người…
Bên cạnh chủ đề chính viết
về tình yêu đôi lứa, Hà Quảng cũng dành dụm thời gian viết về tình yêu gia
đình, tình yêu quê hương, đất nước. Tình yêu gia đình, quê hương, đất nước
trong thơ anh gần gũi thân thương và hòa quyện khăng khít, thắm thiết. Không
gian thơ mở rộng đa chiều: từ cơn «Mưa xưa» qua
«Chiều mưa Đồng Cát»; từ «Dòng sông quê mẹ» đến «sông Thoa», «sông Dinh»;
từ giọt «Nắng phương Nam» đến «Đôi miền thương nhớ»…đâu đâu ta cũng bắt gặp
những hình ảnh thân thương, trìu mến, thiên nhiên ấp ủ tâm hồn người :
« Cơn mưa chiều lãng
đãng
Dòng sông Thoa thì
thầm…”
“ Nắng phương
Nắng dịu hiền mang màu
sắc rất riêng
Nắng phương
Cứ dập dờn như con sóng
triền miên…”
Rất nhiều người đã làm
thơ ca ngợi: Mười cô gái ở Ngã Ba Đồng Lộc nhưng Hà Quảng có cách thể hiện
riêng. Vẫn bằng thủ pháp tu từ hoán dụ,
tác giả dụng công đặc tả về mái tóc- mái tóc của những nữ thanh niên xung phong
thời chống Mỹ cứu nước:
“ mái tóc vương vương
màu đất
mái tóc vương vương màu
khói bom
cây bồ kết trĩu quả tỏa
hương
cái lược, cái gương của
thời con gái…”
(Mười cô gái ở ngã ba Đồng Lộc)
Không chỉ mở rộng phạm
vi thơ ở không gian đa chiều, Hà Quảng cũng rất chú ý đến thời gian trong thơ:
quá khứ- hiện tại- tương lai luôn đan
cài, trăn trở trong thơ anh. Sau hai
mươi năm xa cách, thầy trò gặp lại nhau
tại ngôi trường cũ, thầy giáo rưng rưng
quan sát các em đi tìm lại bóng dáng, nụ cười, tiếng nói của mình “còn đọng đâu
đây nơi lớp học sân trường”. Không có tấm lòng yêu nghề mến trẻ sâu sắc, không
thể viết được những câu thơ chân mộc, nặng tình như thế này:
“ Những mái đầu xanh
nhuộm vài sợi bạc
Cuộc sống mỗi người
nhiều nét đổi thay
Chúng ta vẫn nhận ra
bao điều ngày ấy
Niềm yêu thương còn
lắng đọng đến giờ!”
(Sau hai mươi năm)
Mùa xuân- thời gian
khởi đầu một năm, cả nước dành sự quan tâm cho những người lính trẻ đang ngày
đêm canh giữ bảo vệ biển đảo Trường Sa:
“Người dân biết các anh
còn nhiều thiếu thốn
Gửi món quà quê mẹ thắm
yêu thương
Người vợ gửi cho chồng
bằng tình yêu chung thủy
Đứa con thơ gửi cha cái
hôn nồng nàn sữa mẹ…”
Tác giả thấm thía một
điều: món quà các anh bộ đội Trường Sa cần nhất không phải là
giá trị vật chất mà là tình cảm thân thương, trìu mến, chung thủy…từ đất liền dành
cho anh, giúp anh có thêm động lực “vững vàng tay súng, bảo vệ chủ quyền lãnh
hải biên cương”.
Mùng ba Tết, học sinh
đến thăm thầy cũng làm cho tác giả rưng rưng cảm động:
“Chén trà xuân lan tỏa
Không gian tràn nhớ
thương
Hương xuân gợi vấn
vương
Biết bao điều muốn nói”
(Chiều mùng ba Tết)
Mỗi khoảnh khắc thời gian
đi qua cuộc đời cũng chạm vào tâm hồn đa cảm ấy miên man nỗi nhớ
“tháng ba rồi không
biết sao đây
nỗi nhớ chất chồng nỗi
nhớ
sao nhớ thương không
lối đợi
vương vương tóc em nồng nàn”
(Chút nắng tháng ba)
Giọt mưa tháng bảy trong thơ anh cũng vương mang sầu nhớ:
“ Giọt mưa nào rơi bên
kia sông
Để giọt bên này nhớ
nhung sâu nặng”
(Mưa tháng bảy)
Rồi một đêm tháng mười huyền ảo:
“ anh vịn vào ánh trăng
ánh trăng khuya mềm mại
như nỗi nhớ không tên
trĩu nặng bao niềm khát
khao…”
( Giữa tháng mười)
Có một mùa thu người
thơ ấy ra thăm Hà Nội “thành phố cổ kính trong sắc màu hiện đại”, ngắm hồ Gươm
“lăn tăn con sóng” êm dịu, sao anh vẫn cảm thấy như những con sóng ấy:
“Vỗ vào lòng anh
Cứa vào da thịt anh
Nỗi nhớ”
( Mùa thu Hà Nội)
Hơi phóng đại một chút
khi nói con sóng lăn tăn nơi Hồ gươm thơ mộng kia lại có sức mạnh “cứa vào da
thịt anh nỗi nhớ”. Nhưng nếu đọc kỹ từng bài thơ trong tập thơ” Mưa hoang” của Hà Quảng, mới hiểu người
thơ này luôn mượn cảnh tả tình và cảm
nhận của anh là hoàn toàn chân thực , bởi “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
(Nguyễn Du).
Thơ Hà Quảng giàu cảm
xúc và mang đầy tâm trạng ưu tư hoài niệm:
“ Chiều nay cơn gió
liêu xiêu
Còn không nỗi nhớ những
chiều mưa xưa?”
(Mưa xưa)
Dẫu có mộng mơ, hoài cổ
đến mấy, người thơ ấy vẫn rất tỉnh táo sống cho hiện tại và hướng đến tương lai
với cái nhìn lạc quan, yêu đời. Bóc tờ lịch cuối cùng của năm cũ, treo lên
tường một bloc lịch mới, anh tự hỏi mình:
“Ta làm được gì sau mỗi
bước thời gian”
(Tờ lịch)
Anh ước mong cho mình
và cho mọi người cuộc sống ngày càng mới
mẻ, tươi trẻ. Đó là thái độ sống của một người đầy lòng tự trọng, biết làm chủ
bản thân và làm chủ cuộc đời.
Gấp cuốn sách lại,
trong tôi vẫn còn đọng lại dư ba cơn “mưa hoang” phiêu lãng xuyên suốt chủ đề
của tập thơ Hà Quảng.Tôi biết anh là một thầy giáo dạy văn cấp ba. Đó là một
lợi thế để người thơ không chuyên này áp dụng các biện pháp tu từ về từ vựng (so
sánh, ẩn dụ, hoán dụ, ngoa dụ…) làm cho nghệ thuật chuyển tải nội dung thơ thêm
phong phú, đa dạng. Một ưu điểm về nghệ thuật nữa trong tập thơ này là tác
giả đã sử dụng linh hoạt các thể thơ tự
do, thơ năm chữ, thơ bảy chữ, thơ tám
chữ, thơ lục bát… khá nhuần nhuyễn, giàu âm thanh, hình ảnh, nhạc điệu. Tôi
biết có nhiều người viết thơ không chuyên ở lứa tuổi 5x, 6x thường mắc phải cái
lỗi viết thơ theo lối mòn, lặp lại nội dung, cách viết của người khác và lặp
lại chính mình. Rất may, Hà Quảng không mắc phải cái lỗi ấy.
Nếu có điều gì mong mỏi
hơn ở thơ Hà Quảng, tôi mong anh dồn nén
cảm xúc trong từng câu chữ hơn nữa, tạo được nhiều câu thơ “ý tại ngôn ngoại”
hơn nữa…Và tôi cũng rất tán đồng với ý
kiến xác đáng của nhà thơ Mai Bá Ấn: ”…Chúng ta tiếp tục mong Hà Quảng có nhiều
hơn những phút “hóa dại khờ” và “hoang đàng”; nhiều hơn nữa những “ngọn tình âm
ỉ cháy” cùng những “hoang sơ mộng mị” ngay chính trong lòng mình để chuyển thi
pháp từ “có cớ” sang “vô cớ” ngày một thơ hơn”.
Sìn Hồ, ngày 25. 6. 2015.
Bùi Thị Sơn
(Hội viên Hội VHNT tỉnh Lai Châu- Hội viên Hội VHNT
Các Dân tộc Thiểu số Việt
“
Thứ Năm, 25 tháng 6, 2015
Khi em giận
Hà Quảng
Khi em giận
Khi em giận Mặt Trời buồn đi
ngủ
Anh bơ vơ lạc lỏng chốn không
em
Chốn không em sao cô đơn đến
vậy?
Con đường tình nỗi nhớ bỗng
dài thêm…
Thứ Bảy, 6 tháng 6, 2015
HÀ QUẢNG VÀ NHỮNG CƠN MƯA
HÀ QUẢNG VÀ NHỮNG CƠN MƯA
(Một cảm nhận khi đọc “MƯA HOANG” – HÀ QUẢNG)
Tôi biết Hà
Quảng khá muộn màng. Có thể nói là rất muộn khi anh sở hữu trong tay ba tập thơ in riêng. Cái dáng người cao
cao và khuôn mặt trầm tư của anh khiến cho tôi và mọi ngươi mới gặp gỡ
lần đầu cảm thấy có gì đấy hơi khó gần ... Thế nhưng khi đọc “Mưa hoang”,
tập thơ thứ 3 của Hà Quảng, tôi mới vỡ ra rằng bên trong cái vóc dáng đầy trầm
tư ấy chứa nhiều lắm sự rung động nội tâm dữ dội.
Tôi thích đọc ngược thơ. Có lẽ vì tôi muốn đi ngược chiều với tác giả để tìm thấy cái thông điệp ẩn mình trong câu chữ. Và với “Mưa hoang” cũng vậy, tôi đã đọc ngược tập thơ từ bài cuối về trước.
Tôi thích đọc ngược thơ. Có lẽ vì tôi muốn đi ngược chiều với tác giả để tìm thấy cái thông điệp ẩn mình trong câu chữ. Và với “Mưa hoang” cũng vậy, tôi đã đọc ngược tập thơ từ bài cuối về trước.
Bài “Chiều mùng ba Tết”, Hà Quảng đã
để lại trong tôi cái ấn tượng đầu tiên của cái ấm áp đầu xuân khi các em về
thăm Thầy cũ. Tiếng cười giòn tan chiều đầu năm tưởng chừng ngọt như kẹo gương
ấy được pha thêm chút hương vị của đất trời:
“Giọt mưa xuân rơi rơi
Trên thềm xưa lối cũ
Giọt mưa xuân ấp ủ
Giấc mơ nào cho em…”
Theo kinh nghiệm của các cụ lão nông thì cơn mưa đầu tiên vào những ngày đón chào năm mới là cơn mưa lành, con mưa báo hiệu một năm đầy an vui và sung túc. Phải chăng Hà Quảng cũng muốn vậy và gửi vào chiều mùng ba Tết một cơn mưa như thế?
Hà Quảng và những cơn mưa đã dẫn dắt ký ức đi từ miền xa hút với những rung động nội tâm đầy ắp nỗi niềm:
“Một chiều mưa bên kia sông Vệ
Anh lặng thầm theo ký ức thời gian…”
(Tiếng mưa rơi)
để rồi Hà Quảng nhớ một thời
“… Em của ngày thuở còn đi học
Chiều tan trường trời đổ cơn mưa”
(Tiếng mưa rơi)
và …
“Em xa xôi hiện về nơi bến vắng
Mưa nhòa từng giọt mưa rơi”
(Tiếng mưa rơi)
Thú thật là tôi cũng đã từng ngồi nhìn mưa, nghe mưa nhưng chưa bao giờ thấy “mưa nhòa từng giọt mưa”. Nỗi nhớ ở đây đã được Hà Quảng chồng lên, chất ngất yêu thương. Mưa đi xuyên qua thơ Hà Quảng từ phố thị đến những miền quê:
“Mưa về trên Đồng Cát
Thị trấn nhỏ bình yên…”
(Chiều mưa Đồng Cát)
Và
“ Một chiều mưa bên kia cầu sông Vệ
Anh lặng thầm theo ký ức thời gian…”
Mưa trong “Mưa hoang” đã kéo Hà Quảng đi về miền xa lắc, tận sâu trong miền kí ức:
“ Em bỏ quên cơn mưa chiều năm ấy
Đường Sài Gòn ngập lối anh đi…”
(Bao điều muốn nói)
“Giọt mưa xuân rơi rơi
Trên thềm xưa lối cũ
Giọt mưa xuân ấp ủ
Giấc mơ nào cho em…”
Theo kinh nghiệm của các cụ lão nông thì cơn mưa đầu tiên vào những ngày đón chào năm mới là cơn mưa lành, con mưa báo hiệu một năm đầy an vui và sung túc. Phải chăng Hà Quảng cũng muốn vậy và gửi vào chiều mùng ba Tết một cơn mưa như thế?
Hà Quảng và những cơn mưa đã dẫn dắt ký ức đi từ miền xa hút với những rung động nội tâm đầy ắp nỗi niềm:
“Một chiều mưa bên kia sông Vệ
Anh lặng thầm theo ký ức thời gian…”
(Tiếng mưa rơi)
để rồi Hà Quảng nhớ một thời
“… Em của ngày thuở còn đi học
Chiều tan trường trời đổ cơn mưa”
(Tiếng mưa rơi)
và …
“Em xa xôi hiện về nơi bến vắng
Mưa nhòa từng giọt mưa rơi”
(Tiếng mưa rơi)
Thú thật là tôi cũng đã từng ngồi nhìn mưa, nghe mưa nhưng chưa bao giờ thấy “mưa nhòa từng giọt mưa”. Nỗi nhớ ở đây đã được Hà Quảng chồng lên, chất ngất yêu thương. Mưa đi xuyên qua thơ Hà Quảng từ phố thị đến những miền quê:
“Mưa về trên Đồng Cát
Thị trấn nhỏ bình yên…”
(Chiều mưa Đồng Cát)
Và
“ Một chiều mưa bên kia cầu sông Vệ
Anh lặng thầm theo ký ức thời gian…”
Mưa trong “Mưa hoang” đã kéo Hà Quảng đi về miền xa lắc, tận sâu trong miền kí ức:
“ Em bỏ quên cơn mưa chiều năm ấy
Đường Sài Gòn ngập lối anh đi…”
(Bao điều muốn nói)
Để rồi Hà Quảng
“…Câu thơ không
cánh mà vương
Để thương, anh nhớ con đường mưa xưa”
( Mưa xưa)
Tôi không thích nhặt từng từ, ghép từng chữ của Hà Quảng để tìm cho mình một sự đồng cảm. Nhưng thực sự, Hà Quảng đã lôi mưa đi khắp cuộc hành trình từ tháng ba, tháng bảy đến tận cuối mùa đông
“ Mưa tháng bảy sao buồn rười rượi
Cầu Ô kia em có đi về…”
(Mưa tháng bảy)
Và rồi
“giữa tháng mười rồi em
ngoài trời đang đổ cơn mưa”
(Giữa tháng mười)
Để rốt ráo lại thì “cơn mưa hoang rong chơi về phía biển” và
“Cơn mưa hoang lặng im
Em thấy mình đơn côi”
(Mưa hoang)
Tôi không là nhà phê bình lý luận văn chương, nên cảm nhận lan man từ những gì “Mưa hoang” mang lại nó không đầu không cuối. Cái bất chợt mưa nắng của Hà Quảng là sự dồn nén ký ức, là sự bùng vỡ của nội tâm mà chẳng biết vô tình hay cố ý mà tác giả đã dắt mưa đi theo kiểu của mình. Sự phân tích kết cấu và ngôn từ thì dành cho các nhà chuyên nghiệp, tôi không dám lạm bàn.
Đứng về góc độ độc giả, tôi chỉ muốn khép lại bài cảm nhận của mình bằng một câu hỏi thôi. “Vì sao tác giả đặt tên cho tập thơ này là MƯA HOANG mà không phải là MƯA HOAN”
Chắc chắn Hà Quảng cũng không muốn trả lời câu hỏi này nhưng trong một sat – na nào đó, tôi tin Hà Quảng và những cơn mưa sẽ mang theo nhiều khúc hoan ca tình ái.
Để thương, anh nhớ con đường mưa xưa”
( Mưa xưa)
Tôi không thích nhặt từng từ, ghép từng chữ của Hà Quảng để tìm cho mình một sự đồng cảm. Nhưng thực sự, Hà Quảng đã lôi mưa đi khắp cuộc hành trình từ tháng ba, tháng bảy đến tận cuối mùa đông
“ Mưa tháng bảy sao buồn rười rượi
Cầu Ô kia em có đi về…”
(Mưa tháng bảy)
Và rồi
“giữa tháng mười rồi em
ngoài trời đang đổ cơn mưa”
(Giữa tháng mười)
Để rốt ráo lại thì “cơn mưa hoang rong chơi về phía biển” và
“Cơn mưa hoang lặng im
Em thấy mình đơn côi”
(Mưa hoang)
Tôi không là nhà phê bình lý luận văn chương, nên cảm nhận lan man từ những gì “Mưa hoang” mang lại nó không đầu không cuối. Cái bất chợt mưa nắng của Hà Quảng là sự dồn nén ký ức, là sự bùng vỡ của nội tâm mà chẳng biết vô tình hay cố ý mà tác giả đã dắt mưa đi theo kiểu của mình. Sự phân tích kết cấu và ngôn từ thì dành cho các nhà chuyên nghiệp, tôi không dám lạm bàn.
Đứng về góc độ độc giả, tôi chỉ muốn khép lại bài cảm nhận của mình bằng một câu hỏi thôi. “Vì sao tác giả đặt tên cho tập thơ này là MƯA HOANG mà không phải là MƯA HOAN”
Chắc chắn Hà Quảng cũng không muốn trả lời câu hỏi này nhưng trong một sat – na nào đó, tôi tin Hà Quảng và những cơn mưa sẽ mang theo nhiều khúc hoan ca tình ái.
U Minh Thất, 29. 5. 2015
LÊ NGHỊ
THƠ - CÓ CỚ VÀ VÔ CỚ
THƠ - CÓ CỚ VÀ VÔ CỚ
Sinh ra và lớn lên ở bờ Bắc sông Vệ
(Nghĩa Hiệp, Tư Nghĩa). Dạy học và cư trú ở bờ Nam sông Vệ (Đức Nhuận, Mộ Đức).
Thơ Hà Quảng bắt nguồn từ đôi bờ sông thao thiết gió ấy. Có lẽ do sống giữa đôi
bờ, nên con sông Vệ được Hà Quảng khám phá ở nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau.
Sinh ra, lớn lên ở đó; dạy học, làm thơ ở đó nên Hà
Quảng có điều kiện để quan sát và cảm nhận về kỷ niệm, về hiện thực đôi bờ sông
Vệ. Lỡ khi kỷ niệm cạn nguồn, anh lại được tiếp sức bởi lớp lớp học trò trung
học phổ thông vô tư, hồn nhiên và mơ mộng. Tất cả đó tác động trực tiếp vào tâm
hồn người thầy để bật dậy tiếng thơ trước muôn màu hiện thực. Nếu ai đó thử làm
thống kê và nhận ra số lượng bài thơ viết về sông Vệ qua ba tập thơ của anh:
“Con sóng tình yêu” (2010), “Thao thức” (2013) và “Mưa hoang” (2015) chiếm một tỷ lệ rất cao cũng
đừng nên lấy đó làm ngạc nhiên. Thơ ca truyền thống thường “Tức cảnh sinh tình”
mà!
Cũng chính từ xuất phát điểm này, mà về sau khi đi đến
vùng quê mới nào, anh cũng có thơ. Nghĩa là lại cũng “Tức cảnh sinh tình” như
thế. Viết lời Bạt cho tập “Thao thức” của anh, tôi đã giật tít bài là “Hà Quảng
- Thao thức những miền quê”. Chính vì lẽ đó, tôi nhận ra, thơ Hà Quảng nghiêng
về “Thơ có cớ”, còn “Thơ vô cớ” xuất phát từ quằn quại nội tâm chính mình,
không dựa vào “cái cớ” nào cả thì còn rất ít. Cũng chính vì lẽ đó mà thơ Hà
Quảng ít có được những bứt phá nội tâm dữ dội. Ít có những tiếng “nổ ngầm” phát
ra từ chính con tim nung nấu của riêng mình. 48 bài thơ trong tập “Mưa hoang”
này cũng thế! Hầu hết đều có “cái cớ” của nó. Ví như: “Chiều sông quê”, “Dòng
sông quê mẹ”, “Ngày mai em về sông Vệ”, “Chiều mưa Đồng Cát”, “Mười cô gái ở
ngã ba Đồng Lộc”,“Quy Nhơn ngày về”, “Một thoáng La Gi”, “Nắng phương Nam”… Ở
quê thì “có cớ” của tình quê:
Em có biết
nơi thôn nghèo bên dòng sông Vệ
Tuổi thơ anh
lớn lên theo lớp học trường làng
(Chiều sông quê).
Đi xa thì “có
cớ” của những tình xa:
Mười vòng hoa
trên mười ngôi mộ
Mười bát
nhang nghi ngút hương trầm
(Mười cô gái ở ngã ba Đồng Lộc)…
Cả những bài thơ nếu lướt qua đầu đề tưởng là “vô cớ”,
khi đọc kỹ ta vẫn thấy “có cái cớ” của nó:
Anh gặp em
một ngày nắng đẹp
trời bình yên
gió sông Trà
lặng lẽ
(Thời gian đừng qua mau)…
“Thơ có cớ” của Hà Quảng dung dị, gần gũi với thi pháp
truyền thống, hợp với nghề của anh và được học trò anh đón nhận. Đó là những
câu thơ không làm dáng nhưng có dụng công. Phần ý thức của người làm thơ mạnh
hơn phần vô thức. Cũng là nhà giáo làm thơ nên tôi rất hiểu cái tâm người thầy
trong từng bài thơ Quảng viết. Nhưng hình như, cái người thầy dạy văn Đoàn Văn
Khánh (tên thật của anh) có phần “lãnh đạo” người thơ Hà Quảng bằng những “chỉ
lệnh” hơi quá khắt khe nên người đọc cứ có cảm giác tiêng tiếc về một sự bứt
phá cùng với chút lãng đãng, mơ màng pha đôi chút liêu trai để mặc sức cho con
người mơ mộng.
Nói điều này, cũng để xin báo hiệu với anh em rằng, so
với hai tập thơ đầu, tập thơ này ta đã thấy hé lộ một Hà Quảng bắt đầu hành
trình vào “Thơ vô cớ”, bắt đầu có những bộc vỡ tự nội tâm, tự đào sâu vào chính
mình để mộng mơ hơn một chút, phá cách hơn chút nữa, đưa những bài “thơ-
rõ-ràng- ý” sang những bài “thơ-cô-đặc-tứ”. Ngay cái tên “Mưa hoang” của tập
thơ này đã nói lên điều đó.
Và trong những bài “thơ vô cớ” ấy, ta bắt gặp những
câu thơ đẹp và lạ hơn, bắt gặp một Hà Quảng mới:
- chiều về
chậm chậm
mấy chú ve
sầu giữa tháng tư đi đâu
(Nỗi nhớ)
- Mái tóc của
ai thời đi học
Về trong giấc
mơ
(Em có phải là cô gái ấy?)
- Em ao ước
trở thành loài hoa dại
nên thơ anh
cũng hóa dại khờ
(Tình
anh)
- Ngọn lửa
tình vẫn ầm ĩ trong anh
sao anh khao
khát chút nắng vàng bên khe suối
(Ngọn lửa tình)
- Chiều hoang
sơ mộng mị
Em đi tìm
nghĩa chữ yêu?
(Mưa hoang)…
Vâng! Chúng ta tiếp tục mong Hà Quảng có nhiều hơn
những phút “hóa dại khờ” và “hoang đàng”; nhiều hơn nữa những “ngọn tình ầm ĩ
cháy” cùng những “hoang sơ mộng mị” ngay chính trong lòng mình để chuyển thi
pháp từ “có cớ” sang “vô cớ” ngày một thơ hơn.
Xin vui mừng giới thiệu tập thơ thứ ba của Hà Quảng -
“Mưa hoang” cùng bạn đọc xa gần!
Xóm Chòi Dầu, Nguyên tiêu Ất Mùi, 2015.
Nhà thơ, Tiến sĩ MAI BÁ ẤN
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)